Các câu hỏi và đáp án dự thi tìm hiểu xây dựng Đảng

Câu 1: Hãy nêu những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng từ ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay? Trả lời Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu "một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam", là dấu ấn lịch sử đối với sự hình thành và phát triển công tác tổ chức của Đảng. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng ta đã nhận thức: Công tác tổ chức, xây dựng Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, là một bộ phận chủ yếu hợp thành và có tính chất quyết định thắng lợi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp từ ngày 14/10/1930 đến cuối tháng 10/1930 tại Hương Cảng - Trung Quốc. Việc hình thành Bộ Tổ chức kiêm Giao thông đánh dấu sự chuyển biến mới trong công tác tổ chức của Đảng. Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã quyết định lấy ngày 14/10 hàng năm là ngày truyền thống của ngành tổ chức xây dựng Đảng và cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp. Khi mới thành lập, năm 1930, toàn Đảng có 310 đảng viên và đến tháng 8/1945, Đảng vừa tròn 15 tuổi với 5.000 đảng viên đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, lập ra Nhà nước công nông đầu tiên tại Đông Nam châu Á. Chín năm trường kỳ kháng chiến, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ đảng viên, góp phần động viên, tập hợp sức mạnh của cả dân tộc làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 7274 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các câu hỏi và đáp án dự thi tìm hiểu xây dựng Đảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1: Hãy nêu những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng từ ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay? Trả lời Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu "một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam", là dấu ấn lịch sử đối với sự hình thành và phát triển công tác tổ chức của Đảng. Từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng ta đã nhận thức: Công tác tổ chức, xây dựng Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, là một bộ phận chủ yếu hợp thành và có tính chất quyết định thắng lợi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất họp từ ngày 14/10/1930 đến cuối tháng 10/1930 tại Hương Cảng - Trung Quốc. Việc hình thành Bộ Tổ chức kiêm Giao thông đánh dấu sự chuyển biến mới trong công tác tổ chức của Đảng. Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã quyết định lấy ngày 14/10 hàng năm là ngày truyền thống của ngành tổ chức xây dựng Đảng và cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp. Khi mới thành lập, năm 1930, toàn Đảng có 310 đảng viên và đến tháng 8/1945, Đảng vừa tròn 15 tuổi với 5.000 đảng viên đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, lập ra Nhà nước công nông đầu tiên tại Đông Nam châu Á. Chín năm trường kỳ kháng chiến, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ đảng viên, góp phần động viên, tập hợp sức mạnh của cả dân tộc làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ. Năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Công tác tổ chức ở miền Bắc lúc này tập trung vào kiện toàn tổ chức các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể; thực hiện “Bốn tốt” ở các Chi bộ, Đảng bộ cơ sở gắn với cuộc vận động “Ba xây, ba chống”; đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ xuất thân từ công, nông, học sinh miền Nam tập kết. Ở miền Nam, công tác tổ chức tập trung xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên để lãnh đạo và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, công tác tổ chức tập trung vào xây dựng, củng cố hệ thống chính trị thống nhất trong cả nước; điều động hàng vạn cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên môn cho miền Nam. Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, niềm tin của nhân dân suy giảm. Ngành tổ chức xây dựng Đảng đã cùng toàn Đảng tiến hành công cuộc đổi mới, đổi mới về tổ chức và cán bộ, tạo cơ sở cho việc tiến hành đổi mới toàn diện, từng bước khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị. Trong thời kỳ đổi mới, công tác tổ chức xây dựng Đảng bám sát thực tiễn, thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy mạnh kiện toàn, sắp xếp tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị; thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Trải qua 79 năm, công tác tổ chức đã góp phần to lớn, quan trọng vào thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần xây dựng Đảng thực sự là một chính đảng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, hết lòng, hết sức, tận tụy phục vụ nhân dân. Hệ thống tổ chức không ngừng được củng cố và đổi mới; đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức của Đảng được giáo dục, trưởng thành, không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Trong suốt chặng đường lịch sử vẻ vang của ngành, chúng ta thấm nhuần sâu sắc ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ chức xây dựng Đảng. Đó là, phải giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tăng cường tính tiên phong của Đảng là yêu cầu cơ bản, có tính nguyên tắc đối với công tác xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức. Công tác xây dựng Đảng về tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với các mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng; nhận thức và thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, chăm lo xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng; nâng cao chất lượng công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng; bảo đảm tính kế thừa và phát triển; củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; bồi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, quyền làm chủ và lợi ích thiết thực của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, của công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Câu 2: Những bài học kinh nghiệm chủ yếu về công tác tổ chức xây dựng Đảng trong 80 năm qua của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Trả lời Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc và phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Bài học quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng ta trong Cách mạng tháng Tám là tạo nên sự thống nhất nhận thức và hành động của toàn Đảng và toàn dân, động viên và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn và tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược kéo dài 30 năm mới giành được độc lập hoàn toàn và thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kết thúc một trong hai chiến lược cách mạng mà Cương lĩnh của Đảng năm 1930 đề ra và Cách mạng tháng Tám là một thắng lợi vĩ đại. Từ thành quả và kinh nghiệm thực tiễn của hơn 20 năm tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc (1954-1975), thực tiễn của hơn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối và khởi xướng công cuộc đổi mới ở nước ta. Đường lối đổi mới của Đại hội VI (12- 1986) là sự đổi mới căn bản, toàn diện nhưng trước hết hướng vào đổi mới chủ trương, chính sách kinh tế. Đại hội VI cũng nhấn mạnh yêu cầu đổi mới nội dung lãnh đạo và phong cách làm việc của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong các nội đung đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội VI đặt lên hàng đầu, coi đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Năm 1945, nước ta có hơn 20 triệu dân, Đảng Cộng sản với gần 5000 đảng viên. Bằng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và năng lực tổ chức thực tiễn tuyệt vời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Ngày nay, nước ta với hơn 80 triệu dân, Đảng có hơn 2 triệu đảng viên, với đường lối đổi mới đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn điện, có hiệu quả đã và đang đưa sự nghiệp đổi mới phát triển và giành được những thành tựu ngày càng to lớn. Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) (1-2004) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của Cách mạng tháng Tám và của các thời kỳ cách mạng trước đây, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp đổi mới trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Cùng với nhiệm vụ tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hoàn thiện Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tăng cường quốc phòng an ninh, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững sự ổn định chính trị, gần ba năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đạt được những kết quả quan trọng: nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá cao; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến; thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, đang tiếp tục hình thành và phát triển các loại thị trường. Thị trường hàng hoá sôi động và phát triển với tốc độ nhanh; thị trường lao động có bước phát triển; thị trường tài chính-tiền tệ đạt được một số kết quả bước đầu... Câu 3: Theo đồng chí, để xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, công tác tổ chức cán bộ cần được đổi mới như thế nào? Trả lời Những năm qua, Ðảng ta luôn vững vàng trước mọi thử thách, vừa kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, vừa đổi mới, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Công tác xây dựng Ðảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, được tích cực xây dựng, chỉnh đốn trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đã đạt được một số kết quả. Báo cáo chính trị trình Ðại hội X khẳng định: "Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển Ðảng, công tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Ða số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức, v.v."(1). Tuy nhiên, Ðại hội X cũng nghiêm túc chỉ ra rằng, công tác xây dựng Ðảng còn nhiều bất cập, các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng chưa được thực hiện đầy đủ; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, chồng chéo, trách nhiệm không rõ, hiệu lực, hiệu quả thấp; nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm khắc phục. Ðiều đáng lo ngại là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và nhân dân, làm hư hỏng cán bộ, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Không ít tổ chức cơ sở đảng yếu kém, vừa không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, vừa buông lỏng lãnh đạo, giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên, thậm chí có nơi bị tê liệt, mất sức chiến đấu. Một số vụ án lớn vừa qua gây bất bình trong xã hội đều có khuyết điểm của Chi bộ, Đảng ủy cơ sở, ban cán sự đảng, cơ quan tham mưu về tổ chức cán bộ và người đứng đầu tổ chức, đơn vị trong công tác đánh giá, sử dụng và quản lý cán bộ. Những khuyết điểm, yếu kém trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính. Một mặt, tư duy của Ðảng trên một số lĩnh vực trong đó có lĩnh vực xây dựng Ðảng trong điều kiện mới chậm được đổi mới; mặt khác, việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Ðảng chưa nghiêm, thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi, tính chiến đấu chưa cao; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý" còn khá phổ biến. Ngoài ra, có một nguyên nhân quan trọng nữa là, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cấp cao thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và năng lực. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử qua 20 năm đổi mới là kết quả tổng hợp của sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, đầy sáng tạo của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta, nhưng nhân tố hàng đầu có tính quyết định là năng lực lãnh đạo của Ðảng ta. Bước vào giai đoạn mới, bên cạnh thời cơ, chúng ta phải đương đầu với những thách thức hết sức gay gắt liên quan đến sự tồn vong của Ðảng và của chế độ. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những tác động tích cực, chúng ta chưa lường hết tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến công tác xây dựng Ðảng, nhất là tác động đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, không loại trừ bất kỳ ai, ở bất kỳ lĩnh vực công tác nào. Sự tác động này ngày càng dữ đội, gây ra nhiều hậu quả xấu. Trong bối cảnh đó, công tác xây dựng Ðảng, đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng càng có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Muốn vậy, Ðảng phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao tầm trí tuệ, thực hiện đồng bộ các giải pháp, nhất là những giải pháp mang tính đột phá, đem lại hiệu quả cao mà Báo cáo Chính trị tại Ðại hội X của Ðảng đã nêu: Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện; tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám xát; xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng với nhân dân; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều kiện mới. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình. Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận. Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn các công tác này với công tác tổ chức - cán bộ, với phát triển kinh tế, giải quyết hài hòa các lợi ích. Gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm chính. Đặc biệt quan tâm chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch. 2. Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hóa về mặt nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở, đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu, vùng xa; tập trung giải quyết cơ sở yếu kém. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; năng động, sáng tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về qui mô phải gương mẫu chấp hành điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và qui định cụ thể của Ban chấp hành trung ương. Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng theo đúng qui định của điều lệ Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng gắn với bảo đảm chất lượng. Chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao. Thường xuyên sàng lọc đảng viên. Động viên quần chúng giám sát, đóng góp ý kiến về đảng viên, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách. 3. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi đã thành nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng qui chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia giám sát Đảng, tham gia các công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân. Hoàn thiện qui chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân. Xây dựng qui chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ. Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho ủy ban kiểm tra đảng các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra phòng ngừa. Xây dựng qui chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ. 4. Nâng cao năng lực cầm quyền của Ðảng. Ðiều lệ Ðảng đã khẳng định: "Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng"(2). Là đảng cầm quyền, Ðảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình mới, cần có phương thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Ðảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả. Nhiệm vụ đặt ra là, phải xây dựng Ðảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ðảng cần có tổ chức tham mưu chuyên trách có chất lượng cao và tinh gọn, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là các cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị các tổ chức đó, vừa làm tham mưu cho Ðảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thật sự là trụ cột bền vững của hệ thống chính trị nước ta. 5. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách và năng lực tổ chức thực hiện. Ðường lối chính trị của Ðảng là một trong những nhân tố hàng đầu quyết định vai trò lãnh đạo của Ðảng. Ðườn
Tài liệu liên quan