Đề tài Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay

Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận : ”Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Những đặc trưng cơ bản nhất của một Nhà nước pháp quyền nói chung là tính thượng tôn pháp luật và bảo đảm dân chủ

doc28 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH LỚP TM32B -----š&›----- BÀN VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHÓM THỰC HIỆN: MSSV: 1. Kiều Anh Vũ 3220226 2. Nguyễn Thị Hồng Ngự 3220236 3. Trần Việt Tuấn 3220214 4. Kim Sum 3220245 NĂM 2008 PHẦN MỞ ĐẦU Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận : ”Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Những đặc trưng cơ bản nhất của một Nhà nước pháp quyền nói chung là tính thượng tôn pháp luật và bảo đảm dân chủ. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải tạo dựng và phải tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo có được hai đặc trưng đó. Tuy nhiên, đây là một bài tóan khó mà muốn giải được nó đòi hỏi chúng ta phải có nhiều bước giải khác nhau với các quy trình và thủ thuật thích hợp. Ở đây, chúng tôi muốn nói rằng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều “chất xám” và công sức. Chúng ta phải thực hiện rất nhiều việc trong thời gian lâu dài mới có thể xây dựng được. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến một trong những việc đó. Đó chính là xây dựng “cơ chế bảo hiến”. Bảo hiến là vấn đề đặc biệt được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên việc nghiên cứu về vấn đề bảo hiến trở nên hết sức cần thiết. Chúng ta đã có cơ chế bảo hiến hay chưa? Cơ chế bảo hiến hiện nay như thế nào? Hiệu quả chưa? Nếu chưa thì cơ chế bảo hiến nào là hiệu quả? Chúng ta phải nghiên cứu để có được câu trả lời hợp lí nhất cho những câu hỏi đó. Chúng ta phải nghiên cứu để xây dựng, để có được cơ chế bảo hiến hữu hiệu trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy nghiên cứu về vấn đề bảo hiến là một vấn đề không kém tính thời sự. Việc nghiên cứu này đang diễn ra thường xuyên ở các diễn đàn khoa học. Chúng tôi, với tư cách là những người đang học tập, nghiên cứu về khoa học pháp lý cũng muốn tìm hiểu về vấn đề này. Nghiên cứu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, trước hết, chúng tôi muốn nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi muốn xây dựng cho mình góc nhìn pháp lý, cách tiếp cận vấn đề pháp lý một cách khoa học. Bên cạnh đó, chúng tôi hy vọng kết quả từ sự nghiên cứu của chúng tôi sẽ mang lại những lợi ích nhất định. Chúng tôi mong muốn bài viết này là tài liệu tham khảo cần thiết và hữu ích cho những ai quan tâm, tìm hiểu về vấn đề bảo hiến ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng mà chúng tôi hướng đến chủ yếu là các bạn sinh viên như chúng tôi. “Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay”, chúng tôi mong muốn được góp ý kiến trao đổi về vấn đề này, để cùng nhau đi đến một sự đồng thuận, cùng đi tìm và xây dựng cơ chế bảo hiến thích hợp nhất ở nước ta. Để có được sản phẩm thực sự khoa học, chúng tôi đã bỏ ra thời gian tập trung nghiên cứu nhất định. Mong muốn có được kết quả tốt nhất, trên cơ sở khả năng của mình, chúng tôi đã vận dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Về cơ sở phương pháp luận, đó là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, đó là các phương pháp: tổng hợp, phân tích, tổng-phân-hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch… “Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay” thì có rất nhiều vấn đề để “bàn”. Có những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu, lâu dài. Với kiến thức còn hạn hẹp của mình, chúng tôi chỉ có thể nghiên cứu một vài vấn đề nhất định mang tính cơ bản, dễ tiếp cận mà thôi. Trên tinh thần đó, bài viết này nghiên cứu về các vấn đề sau đây, cũng là cấu trúc của bài viết: Cơ chế bảo hiến – nhu cầu tất yếu Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam 2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 2.2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Hiến pháp 1992 – cơ chế bảo hiến hiện nay Tòa án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay Các cơ chế bảo hiến trên thế giới Tòa án Hiến pháp - Cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ chế bảo hiến - nhu cầu tất yếu Tại Hội nghị đại biểu tòan quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII, năm 1994, Đảng cộng sản Việt Nam đã chính thức đề cập đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị, Đảng ta nêu ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”. Từ đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, trường kỳ. Tư tưởng đó được phát triển tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo và chính thức trở thành một vấn đề Hiến định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) . Như phần mở đầu chúng tôi đã có đề cập, một trong những đặc trưng chung nhất của Nhà nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp, pháp lụât, trước hết là vị trí tối thượng của Hiến pháp. Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, đó là hai yếu tố không thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia. “Lý thuyết về Hiến pháp (Chủ nghĩa lập hiến) đồng thời cũng là lý thuyết về Nhà nước pháp quyền. Nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền...Nói cách khác, nội dung của Hiến pháp điều chỉnh những vấn đề thuộc về nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền” Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2008, trang 211 . Vì vậy, Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp trở thành một đòi hỏi không thể tách rời Nhà nước pháp quyền.”Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của một chế độ dân chủ, của một Nhà nước pháp quyền, nếu như các cơ quan công quyền thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vượt quyền, lạm quyền, vi phạm thẩm quyền được Hiến pháp ghi nhận, ban hành các văn bản họăc thực hiện các hành vi trái Hiến pháp có khả năng hoặc thật sự đã gây thiệt hại cho công dân, cho các tổ chức xã hội. Vì vậy, để chế độ Hiến pháp được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải có cơ chế hữu hiệu bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định” Trương Đắc Linh, Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan Tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số tháng 3/2007 . Để đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp thì nó cần phải được bảo vệ. Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp không thể bị xâm phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo hiến - cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ chế bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu. Nếu không có cơ chế bảo hiến hoặc có nhưng cơ chế không hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính hiệu lực của Hiến pháp bị xâm hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm bảo và chúng ta sẽ không có được Nhà nước pháp quyền! Hơn nữa, ngày nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều công nhận rằng Hiến pháp là đạo luật cơ bản của quốc gia. Bởi vì Hiến pháp xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất ý chí của nhân dân, sự lựa chọn chính trị của nhân dân.Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước do cơ quan đại diện có thẩm quyền thông qua hoặc do nhân dân trực tiếp thông qua; trong đó quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và họat động của các cơ quan Nhà nước then chốt, thể hiện một cách tập nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội - ở nước ta, đó là toàn thể nhân dân vì nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an tòan của người dân. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của một đất nước, nó bao gồm các chế định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Vì lẽ đó, Hiến pháp cần phải ở vị trí tối thượng vì nó là ý chí phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí nhân dân.Chính vì điều này mà chúng ta cần thiết phải có một cơ chế bảo hiến hoàn chỉnh vì có liên quan mật thiết đến tính dân chủ của một Nhà nước, một chế độ, một xã hội và đến sự tồn vong của một thể chế. Tính tối cao của Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp nước ta như sau (Điều 146, Hiến pháp 1992): “Hiến pháp nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Tính tối cao (tối thượng) của Hiến pháp không phải chỉ được khẳng định trên văn bản bằng những con chữ mà chúng ta cần phải có cơ chế đảm bảo nó được thực hiện trong thực tế. Do đó, đòi hỏi tất yếu ở đây là cần có cơ chế bảo vệ. Không những vậy, cơ chế bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính nguyên tắc. Đó chính là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. “Pháp chế xã hội chủ nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật của mọi chủ thể của các quan hệ pháp luật. “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” quy định tại điều 12 “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nguyên tắc này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân đã được pháp luật quy định, ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh chóng, công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí, công bằng” Từ điển Bách khoa tòan thư Việt Nam, . Như vậy, nguyên tắc này đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp. Đã là nguyên tắc thì phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, khó tránh khỏi nguyên tắc này bị vi phạm. Do đó, để ngăn ngừa và xử lí việc vi phạm, một nhu cầu tất yếu là phải có biện pháp bảo vệ. Cơ chế bảo hiến đáp ứng được nhu cầu đó. Trên đây là một vài lý do để có một cơ chế bảo hiến. Chúng tôi cho rằng đó là những lý do hết sức thuyết phục để có một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở nước ta. Và những lý do đó cũng là những đòi hỏi khách quan, tất yếu về một cơ chế bảo hiến. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là lý do để có cơ chế bảo hiến. Đến lượt mình, cơ chế bảo hiến trở thành đòi hỏi tất yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nó đảm bảo đặc trưng của mô hình Nhà nước này, đảm bảo được dân chủ. Tuy nhiên, chúng ta cũng lưu ý rằng, cơ chế bảo hiến chỉ đặt ra đối với Hiến pháp cương tính. Vì Hiến pháp cương tính mới đòi hỏi hiến pháp ở vị trí tối thượng, có hiệu lực pháp lý cao nhất và thủ tục sửa đổi phải tuân thủ nghiêm ngặt những trình tự phức tạp. Đối với Hiến pháp nhu tính thì không có đòi hổi đó, Hiến pháp nhu tính chỉ có vị trí như thường luật và thủ tục sửa đổi dễ dàng. Nếu một đạo luật được ban hành trái với Hiến pháp (nhu tính), thì nó được xem là sửa đổi điều khỏan của Hiến pháp. Chính vì vậy, không đặt ra cơ chế bảo hiến đối vơi Hiến pháp nhu tính. Có thể nói, Hiến pháp cương tính là cơ sở để có cơ chế bảo hiến Xem Bùi Ngọc Sơn, Góp phần nghiên cứu về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005. . 2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam 2.1. Khái lược lịch sử lập hiến Việt Nam Phần này có tham khảo, viện dẫn từ bài viết “Khái quát về Hiến Pháp và lịch sử lập hiến Việt Nam” c ủa PGS.TS. Trương Đắc Linh, giảng viên khoa Luật Hành Chính, Trường đại học Luật TP.Hồ Chí Minh. Trước khi tìm hiểu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam. Thiết nghĩ, chúng ta nên nhìn lại sơ lược về lịch sử lập hiến Việt Nam. Chúng ta phải có một nền lập hiến, có Hiến pháp thì mới đặt vấn đề bảo hiến. Tư tưởng lập hiến Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu của thế kỷ XX. Trong quá trình đấu tranh yêu nước, nhiều sĩ phu, trí thức tiến bộ có cơ hội tiếp xúc tư tưởng của “đại cách mạng” Pháp 1789, ảnh hửơng của cách mạng Tân Hợi (Trung Hoa) 1911 và chính sách Duy tân mà Thiên hòang Minh Trị áp dụng ở Nhật Bản…Tư tưởng lập hiến Việt Nam đã xuất hiện từ những ảnh hưởng đó. Tư tưởng lập hiến lúc đó chia thành hai khuynh hướng: Khuynh hướng thứ nhất: thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo đảm : quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và quyền của “dân An nam” về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến năm 1923) và Phạm Quỳnh. Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc.Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ trương thứ hai là hoàn toàn đúng đắn. Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời trong bối cảnh nước ta đã giành được độc lập. sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" của nhân dân ta, dân tộc ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở đông Nam châu Á. Ngày 03/09/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ Tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó có nhiệm vụ lập ra một Hiến pháp dân chủ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Ngày 20/9/1945 Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến. Ngày 9/11/1946 tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Nền độc lập dân tộc vừa mới giành được lại bị đe dọa vì Thực dân pháp quay lại xâm lược. Với niềm tin "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta làm nên chiến thằng Điện Biên Phủ lịch sử. Thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/07/1954), miền Bắc được giải phóng nhưng đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 “đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”. (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959). Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959 Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này. Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976 đến 3/7/1976), Quốc hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch. Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương, Dự thảo Hiến pháp đã được lấy ý kiến, thảo luận trong cán bộ và nhân dân. Ngày 8/12/1980 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất nước chan hoà khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 60-70 đã khẳng định đây là thời kỳ xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội của đất nước. Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại…, đặc biệt là đổi mới về kinh tế. Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại, tháng 12/1988 Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi Lời nói đầu Hiến pháp 1980, bỏ hết những câu chữ chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc…để thực hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước vốn là kẻ thù xâm lược và đã từng gây tội ác đối với nhân dân ta. Tiếp theo, để dân chủ hóa đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30 tháng 6/1989 tại kỳ họp thứ 5 nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội đã thông qua nghị quyết sửa đổi 7 điều Hiến pháp 1980 để quy định thêm công dân có quyền tự ứng cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; quy định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ cấp huyện trở lên. Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội ra nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980. Sau gần một thập kỷ tồn tại, đất nước có nhiều đổi mới, phát triển. Để phù hợp với tình hình mới, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X (12/2001), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 51/2001/QH10, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992. 2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam Nhìn lại lịch sử lập hiến Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng dù chưa lâu đời nhưng chúng ta đã có được một nền lập hiến dân chủ. Ngay từ đầu, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên, chúng ta đã để cao vai trò của Hiến pháp. Trên thực tế, mặc dù Hiến pháp 1946 không được ban hành rộng rãi trong nhân dân vì hoàn cảnh chiến tranh nhưng Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh luôn làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.Chính vì ngay từ đầu chúng ta đã đề cao tính tối cao của Hiến pháp nên đã sớm hình thành cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, trong thời gian đầu cơ chế này không thể hoàn thiện hay đầy đủ được cũng như chưa đáp ứng trọn vẹn về mặt ngữ nghĩa của cụm từ
Tài liệu liên quan