Đề tài Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội

Trong những năm gần đây thực tiễn xét xử cho thấy rằng tỷ lệ các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được các toà án đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ đáng kể. Vấn đề này thật đáng báo động, là mối quan tâm của toàn xã hội nói chung và của các ngành lập pháp, tư pháp nói riêng

doc24 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong những năm gần đây thực tiễn xét xử cho thấy rằng tỷ lệ các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được các toà án đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ đáng kể. Vấn đề này thật đáng báo động, là mối quan tâm của toàn xã hội nói chung và của các ngành lập pháp, tư pháp nói riêng. Theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan chức năng thì người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 đến chưa đủ 18 tuổi. Do tâm sinh lý còn chưa hoàn chỉnh, việc trang bị những kiến thức cần thiết về các lĩnh vực tự nhiên và xã hội còn nhiều khiếm khuyết, và nhất là các kiến thức về pháp luật. Vì vậy, năng lực hành vi tố tụng có phần hạn chế, các đối tượng này được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước từ góc độ hình sự cũng như tố tụng hình sự, được bảo hộ đặc biệt của Nhà nước cũng như xã hội về các quyền và lợi ích hợp pháp. Xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc trưng như vậy nên bộ luật tố tụng hình sự nước ta dành hẳn một chương riêng (Chương 32) quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Là luật sư trong tương lai, tôi chọn đề tài “ Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội” nhằm mục đích góp một phần làm rõ các các chính sách của Nhà nước đối với người chưa thành niên để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi phạm tội. Luật sư vận dụng chính sách nhân đạo thông qua các quy định của pháp luật, giúp cho người chưa thành niên phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. **** NỘI DUNG CƠ BẢN : VAI TRÒ LUẬT SƯ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN CÓ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI. I/ Khái niệm và các quy định của pháp luật về người chưa thành niên : 1. Khái niệm người chưa thành niên : Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật hình sự năm 2009 (sau đây gọi chung là Bộ Luật hình sự) ,ộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên. Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội. 2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra Điều 12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.  2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là: -Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. - Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự: “1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. 2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. 4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.” … Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây: Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là “cần thiết” khi hội đủ 3 điều kiện sau đây ( 1 ) : - Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu. - Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng. - Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ. Từ những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng... Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất với khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện hành vi phạm tội, còn khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ tội phạm đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên). 3. Một số vấn đề rút ra trong công tác phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lý người chưa thành niên phạm tội Người chưa thành niên do chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và nhân cách nên việc bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên; việc phòng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành niên phạm tội là vấn đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn. Khi tiến hành phòng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành niên phạm tội chúng ta cần chú ý: - Xác định đối tượng tác động trong phòng ngừa tội phạm: Trong các kế hoạch phòng ngừa tội phạm phải xác định đối tượng là trẻ em hay người chưa thành niên hay thanh, thiếu niên. Mỗi đối tượng đó rõ ràng khác nhau về độ tuổi, do vậy khác nhau về đặc điểm tâm lý cho nên phương pháp tác động của chúng ta cũng phải khác nhau. - Tính thân thiện trong điều tra tội phạm: Cán bộ Cảnh sát nhân dân trong khi tiến hành điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài việc vận dụng đúng các quy định pháp luật, sử dụng linh hoạt nghiệp vụ, cần phải là người có kiến thức sâu sắc về tâm lý, đặc biệt là tâm lý thân thiện với người chưa thành niên. Thái độ của cán bộ công an, lời nói và biện pháp được sử dụng, môi trường và các điều kiện vật chất để tiến hành điều tra luôn luôn gắn với tính từ “thân thiện”. Trong giai đoạn điều tra, cán bộ điều tra phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên như việc bắt, tạm giữ, tạm giam; việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội; việc bào chữa; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức. Cũng có nghĩa là, thái độ hà khắc, gây gắt, vô cảm và những biện pháp cứng nhắc, vi phạm tố tụng là điều “cấm kị” đối với cán bộ Cảnh sát nhân dân trong hoạt động điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra. - Tính cụ thể, nhân văn trong xử lý người chưa thành niên phạm tội: Không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều phải xử lý bằng hình sự. Trong công tác điều tra, cán bộ Cảnh sát nhân dân cần thu thập thông tin, chứng cứ để không chỉ làm rõ tất cả những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự mà còn nhằm xác định rõ những vấn đề khác theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phải vận dụng một cách có căn cứ những nguyên tắc quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự. Chúng ta thấu hiểu và đồng tình với quan niệm “Nhà tù là lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội”. Và đương nhiên, khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành niên phạm tội mới là điều tốt lành không chỉ là lý tưởng mà còn là những hành động chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta./. - Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chổ hình phạt được quy định nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Sở dĩ người chưa thành niên được hưởng chính sách giảm trách nhiệm Hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ có những đặc điểm đặc biệt về nhân thân. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến phạm pháp. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói chung chưâ sâu sắc, họ dể tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Do vậy, không thẻ coi người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm Hình sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên. Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trước hết tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Người chưa thành niên có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình cơ quan tổ chức nhận giám sát giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết  và phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không phạt tù trung thân hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung, không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuỏi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên đã phạm tội tương ứng. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Theo Bộ luật hình sự 1999 và Luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009, việc quyết định hình phạt được tiến hành như sau: + Đối với phạt tiền: Nếu như BLHS năm 1985 trước khia chưa quy định áp dụng phạt tiền đối với người chưâ thành niên phạm tội thì BLHS năm 1999 đã quy định phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội nếu họ ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên đồng thời việc áp dụng phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp này vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt. Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt qúa 1/2  mức phạt tiền mà điều luật quy định. + Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định giới hạn hình phạt áp dụng cho người thành niên phạm tội không vượt quá 1/2  thời hạn và điều luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành niên hầu như chưa có thu nhập hoặc tài sản riêng nên BLHS năm 1999 đã không khấu trừ thu nhập của họ khi bị kết án. + Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 1999 đã phân hóa người chưa thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với đường lối xử lí khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì được xử lí nhẹ hơn người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Trong từng đối tượng cụ thể nói trên, nhà làm luật tách thành hai trường hợp ( trường hợp quy định hình phạt tù chung thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn ) tương ứng với mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người thành niên cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về chất của BLHS năm 1999 khi quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể, Điều 74 quy định như sau: 1.” Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù và chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không vượt quá 18 năm tù; nếu là tù có thờ hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù có thời hạn. 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù: nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2  mức phạt tù mà điều luật quy  định” Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau: Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này ( Khoản 1 Điều 75) Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung ấp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội ( Khoản 2 Điều 75) Thực tiễn vận dụng điều 75 Bộ Luật hình sự cho thấy nảy sinh vấn đề cần giải quyết, đó là việc xác định tội nặng nhất. Thực tiễn xét xử đã xác định tội nặng nhất là tội có mức hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất cao hơn. Trong trường hợp có mức hình phạt tối đa bằng nhau thì thì tội nặng hơn là tội có mức hình phạt khởi điểm khung hình phạt cao nhất cao hơn. Cách xác định này một lần nữa được khẳng định tại Thông tư số 01/98 TANDTC – VKSNDTC – BNV ngày 02/1/1998. Tuy nhiên, có những trường hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất của hai tội ngang bằng nhau và cao nhất cũng ngang bằng nhau. Trong khoa học luật Hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau . Ý kiến thứ nhất cho rằng: “Cơ sở để xác định tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm là căn cứ và hình phạt cụ thể mà tòa án đã tuyên cho từng tội. Tội nào có hình phạt cao nhất thì đó là tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm”. Ý kiến thứ hai cho rằng “ Trường hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất là hai tội bằng nhau và hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt cao nhất cũng bằng nhau thì trường hợp này tội nặng hơn là tội có hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì tội nặng hơn là tội có hình phạt khởi điểm của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn.” Tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy có ưu điểm là đơn giản hóa việc vận dụng khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhưng không hợp lí vì không thể coi tội trộm cắp tài sản nặng hơn tội giết người nếu ở trường hợp cụ thể, người phạm tội trộm cắp tài sản bị phạt 10 năm tù, còn ở tội giết người, bị cáo chỉ bị phạt có 7 năm tù. Theo chúng tôi, ý kiến thứ hai hợp lí hơn nhưng chưa đủ để giải quyết những vướng mắc còn lại. Cụ thể là nếu hình phạt tối đa và hình phạt tối thiểu của khung hình phạt có hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì việc xác định tội nặng hơn sẽ như thế nào? Theo chúng tôi,
Tài liệu liên quan