Khóa luận Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Trong suốt th ời kỳ đổi mới hơn 15 năm qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực sựtrởthành chỗdựa đáng tin cậy và không thểthiếu của các thành phần kinh tế, có nh ững đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tếquốc dân phát triển toàn diện với tốc độkhá cao và ổn định. Đặc biệt từkhi tiến hành cải cách lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của các ngân hàng đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn cải cách NHTM trong thời gian qua cho thấy các hoạt động cải cách còn nhiều tồn tại, chưa có sựphối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa các Bộ, Ngành cũng nhưchưa có được một cơchếchính sách đồng bộ cho hoạt động cải cách ngân hàng. Kết quảlà tuy đã giảm được sốlượng các ngân hàng hoạt động không hiệu quảvà tăng vốn điều lệnhưng tỷlệnợquá hạn tại các ngân hàng vẫn còn rất cao, hoạt động của các ngân hàng vẫn chưa thực sự được ổn định. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra những giảipháp thiết thực nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quảhơn nữa hoạt động cải cách các NHTM đang là một nhiệm vụcấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành. t ừTrung ương đến địa phương và các ngân hàng.

pdf100 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2064 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG **************** KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM- THỰC TRẠNG  GIẢI PHÁP Sinh viên thực hiện : Trần Thị Thuý Hằng Lớp : A8 - K37 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thu Hương HÀ NỘI – 2002 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 15 năm qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy và không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ khá cao và ổn định. Đặc biệt từ khi tiến hành cải cách lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của các ngân hàng đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn cải cách NHTM trong thời gian qua cho thấy các hoạt động cải cách còn nhiều tồn tại, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa các Bộ, Ngành cũng như chưa có được một cơ chế chính sách đồng bộ cho hoạt động cải cách ngân hàng. Kết quả là tuy đã giảm được số lượng các ngân hàng hoạt động không hiệu quả và tăng vốn điều lệ nhưng tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng vẫn còn rất cao, hoạt động của các ngân hàng vẫn chưa thực sự được ổn định. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa hoạt động cải cách các NHTM đang là một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành... từ Trung ương đến địa phương và các ngân hàng. 2. Mục đích và ý nghĩa của khoá luận a. Mục đích của khoá luận Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng cải cách các NHTM Việt Nam, khoá luận đưa ra một số định hướng phát triển chính cho giai đoạn tới, đồng thời tìm ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải cách NHTM ở Việt Nam với mục tiêu xây dựng hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, vững mạnh và có khả năng cạnh tranh trong thời kỳ mới. b. Nhiệm vụ của khoá luận Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận là: - Thống nhất chung về mặt lý luận. - Phân tích, đánh giá để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp và kiến nghị. c. Ý nghĩa của khoá luận Về lý luận, khoá luận có ý nghĩa tổng hợp, thống nhất và phát triển những vấn đề bức xúc đã, đang và sẽ tiếp tục được bàn luận, nghiên cứu. Về mặt thực tiễn, khoá luận góp phần bàn luận các vấn đề nhằm thúc đẩy cải cách NHTM Việt Nam trong những năm tới. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ một bài khóa luận, do những hạn chế nhất định về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến tình hình hoạt động của hệ thống NHTM, cùng với một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh cải cách trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp - đúc kết - phát triển, kết hợp lý luận với thực tiễn, từ phân tích đến đánh giá để đưa ra các định hướng phát triển cùng với các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện. 6. Nội dung bố cục của khoá luận Nội dung chính của khoá luận được chia làm 3 chương: Chương 1: Tính cấp thiết của việc tiến hành cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương 2: Thực trạng cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động cải cách ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG I TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC TIẾN HÀNH CẢI CÁCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Khái niệm chung 1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 1.1.1. Sự ra đời và phát triển Ngân hàng thương mại Hệ thống ngân hàng thương mại là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi quốc gia. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của hệ thống NHTM gắn liền với quan hệ cho vay nặng lãi đã từng tồn tại trong thời kỳ phân rã của chế độ công xã nguyên thủy. Các hoạt động tương tự như ngân hàng đã xuất hiện khoảng 3000 năm trước Công nguyên tại các ngôi đền xứ Chaldée (thuộc Irak ngày nay). Thực chất, đó là các hoạt động tiếp nhận lễ vật và tài sản do các tín đồ gửi rồi cho nông dân vay với lãi suất cao. Đến thế kỷ IV trước Công nguyên, các ngân hàng thô sơ bắt đầu được thiết lập ở nhiều nơi. Các ngân hàng cho vay nặng lãi đã xuất hiện ở Ý khoảng 500 năm trước Công nguyên, chủ thể đi vay là giai cấp thống trị và những người sản xuất hàng hoá giản đơn, với mức lãi suất cao từ 40%-100%. Tuy nhiên, các ngân hàng hoạt động với quy mô lớn, đúng chức năng thì chỉ xuất hiện từ thế kỷ 16 về sau, bao gồm các ngân hàng của Ý như Banco di Napoli (1591), Istituto Bancario Sanpaolo di Torino (1563)… Khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, các ngân hàng cho vay nặng lãi buộc phải hạ lãi suất cho vay do áp lực của cuộc đấu tranh chống cho vay nặng lãi của các nhà tư bản. Mặt khác, cũng chính trong quá trình này, các nhà tư bản công thương nghiệp đã liên kết lập thành các hội tín dụng cho vay lẫn nhau với lãi suất vừa phải. Dần dần, những hội tín dụng này đã phát triển trở thành những NHTM cổ phần. Ngân hàng quốc gia Việt Nam, ngân hàng đầu tiên của nước ta đã được thành lập ngày 6-5-1951, theo Sắc lệnh số 15/LCT của Chủ tịch nước. Từ năm 1951 đến trước khi có Nghị định 53/HĐBT(26/3/1988), hệ thống ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, gồm có NHNN và các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc NHNN như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng. Chính hệ thống ngân hàng đơn nhất với cơ chế quản lý bao cấp, quan liêu đã làm cho hoạt động của toàn ngành ngân hàng trở nên đơn phương, cứng nhắc, không đáp ứng được các yêu cầu đổi mới của nền kinh tế thị trường. Vì thế, mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp theo Nghị định 53 là một bước tiến bộ đưa hoạt động tiền tệ, tín dụng thoát khỏi tình trạng cũ, thích hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sau 3 năm hoạt động trong cơ chế mới, ngân hàng đã tỏ ra năng động và linh hoạt hơn trong huy động và sử dụng vốn, nhưng vẫn còn nhược điểm là chưa định hướng rõ ràng, chính sách tiền tệ, tín dụng vẫn còn bao cấp, cho vay vốn lưu động tràn lan, … Trước tình hình đó, Hội đồng Nhà nước đã ban hành 2 Pháp lệnh ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng chuyên doanh được chuyển thành NHTM quốc doanh gồm có: Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCTVN); Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNTVN); Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (NHNTVN). Pháp lệnh ngân hàng cũng quy định các NHTM Việt Nam có thể được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng các nghiệp vụ, tạo điều kiện cho các NHTM có thêm khả năng làm các nghiệp vụ tài chính, từng bước lặp lại trật tự kinh doanh tiền tệ, thu hút đầu tư nước ngoài. Như vậy, hệ thống các NHTM nước ta là một bộ phận trong hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó NHNN làm nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương, còn các NHTM và các TCTD khác hoạt động như các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh. 1.1.2. Định nghĩa Ngân hàng thương mại: Định nghĩa NHTM thường được xây dựng theo tính chất và mục đích hoạt động của ngân hàng. Theo Luật ngân hàng của Pháp năm 1941, NHTM được định nghĩa là: “những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác”. Bên cạnh đó, cũng có một số quốc gia đưa ra định nghĩa về NHTM dựa trên sự kết hợp với đối tượng hoạt động. Ví dụ như Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “NHTM là những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm v.v…”. Ở Việt Nam, không có một định nghĩa riêng về NHTM mà NHTM được coi là một loại hình TCTD. Do đó, định nghĩa các TCTD cũng được xem là định nghĩa NHTM. Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng số tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các NHTM đều có chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. 1.2. Các loại hình NHTM ở Việt Nam Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được tổ chức căn cứ vào nguồn vốn hình thành, bao gồm 4 loại: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh và các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 1.2.1. Ngân hàng thương mại quốc doanh Ngân hàng thương mại quốc doanh là NHTM thuộc sở hữu của Nhà nước, được thành lập bằng 100% vốn Ngân sách. Các ngân hàng này được phép hoạt động trong lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn tùy theo tính chất nguồn vốn huy động, được hoạt động cả trong nước và nước ngoài và các dịch vụ khác theo luật quy định. Từ năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam được sắp xếp lại thành 6 NHTM quốc doanh trong đó 4 ngân hàng hoạt động như những NHTM (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư &Phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn), 2 ngân hàng hoạt động như những ngân hàng chính sách (Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng Sông Cửu Long). Các NHTM quốc doanh hoạt động rộng khắp trên cả nước với 238 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và hơn 1000 chi nhánh cấp 3 trực thuộc tại khắp các vùng dân cư. Đặc điểm chính của các NHTM quốc doanh : - Giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, chiếm 75% vốn huy động và 80% đầu tư cho vay vốn (Bảng 1). - Tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước hạng đặc biệt và hệ thống mạng lưới theo địa dư hành chính.. - Thực hiện cho vay chính sách như một trong các hoạt động chính và còn mang tính ngân hàng chính sách, rõ nhất là NHNN&PTNTVN. - Đã và đang thực hiện mạnh mẽ việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh doanh thị trường định hướng XHCN. 1.2.2. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng được hình thành trên cơ sở vốn góp của các cổ đông với nội dung và phạm vi hoạt động như các NHTM quốc doanh. Tính đến nay, trên cả nước có 36 NHTM cổ phần trong đó có 21 NHTM cổ phần đô thị và 15 NHTM cổ phần nông thôn, tiêu biểu là: NHTM cổ phần Á Châu (ACB); NHTM cổ phần Quân đội; NHTM cổ phần Hàng hải; NHTM cổ phần Đông Á; NHTM cổ phần Bắc Á; NHTM cổ phần nhà Hà Nội (Habubank); NHTM cổ phần Châu Á Thái Bình Dương; NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank); NHTM Nam Phương; NHTM cổ phần Quế Đô… Theo số liệu tại Bảng 1, các ngân hàng này hiện chiếm 10% vốn huy động và 10% đầu tư cho vay vốn. Đặc điểm chính của các NHTM cổ phần : - Hoạt động gần như thuần túy vì lợi nhuận, có thể mở rộng quy mô bằng việc phát hành cổ phiếu mới hoặc trái phiếu để bổ sung vốn. - Tỷ lệ NHTM cổ phần chất lượng kém cao, một số NHTM cổ phần đang bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt của Nhà nước. - Hội đồng quản trị trong các NHTM cổ phần giữ vai trò chủ sở hữu thật, bộ máy điều hành mang nặng tính làm thuê. Bảng 1: Thị phần của từng loại hình trong toàn hệ thống đến hết 5/2002 NHTM quốc doanh NHTM cổ phần Ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài Loại hình  Vốn huy động 75% 10% 11% 4% Đầu tư cho vay 80% 10% 9% 1% Tỷ trọng vốn 38.9% 20% 39.1% 2% Nguồn: Thị trường tài chính - tiền tệ 7-2002 1.2.3. Ngân hàng liên doanh Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Vốn điều lệ của các ngân hàng liên doanh là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài. Loại hình Chỉ tiêu Theo luật, Ngân hàng liên doanh được hoạt động cả bằng đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ theo quy định trong giấy phép. Các ngân hàng này chỉ đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hiện nay, trên lãnh thổ Việt Nam có 5 ngân hàng liên doanh đang hoạt động chiếm 11% vốn huy động và 9% đầu tư cho vay vốn, đó là: ChohungVina Bank (ngân hàng liên doanh giữa NHNT Việt Nam và Hàn Quốc)….. Đặc điểm chính của các Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam : - Thường là liên doanh giữa một NHTM quốc doanh với một ngân hàng của các nước đang phát triển . - Phía Việt Nam luôn giữ vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị, còn phía nước ngoài là Tổng giám đốc điều hành. - Mạng lưới chi nhánh chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội với doanh số hoạt động còn khiêm tốn. 1.2.4. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một bộ phận của Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ có đủ tư cách pháp nhân khi được cấp giấy đăng ký kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng trên 20 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động như : chi nhánh Citibank (Hoa Kỳ); chi nhánh HongKong Bank; ANZ Bank; Mitsui Bank (Nhật Bản)… Đặc điểm của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam : - Phần lớn thuộc các ngân hàng ở các nước đang phát triển (HongKong, Indonesia…) và các nước phát triển (Hoa Kỳ, Nhật Bản…) - Bộ máy điều hành của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do người nước ngoài trực tiếp nắm giữ. - Công nghệ ngân hàng tại các chi nhánh này thường là công nghệ tiên tiến. - Có tiềm lực vốn lớn nhờ vào nguồn vốn của ngân hàng mẹ. Comment [NC1]: Thêm tên nước 2. Đánh giá nguồn lực và hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam 2.1. Đánh giá nguồn lực tại các NHTM Việt Nam 2.1.1. Quy mô vốn tự có và tình hình tài chính 2.1.1.1. Quy mô vốn tự có Vốn tự có là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tiềm lực tài chính của các NHTM. Theo thông lệ quốc tế, vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ đầu tư và một số tài sản nợ khác của ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ, dưới 10% tài sản Có nhưng lại được đặt lên hàng đầu do tiềm lực vốn của ngân hàng quy định quy mô hoạt động, năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và tạo ra uy tín cho ngân hàng. Tuy vậy, lượng vốn tự có của hệ thống NHTM Việt Nam hầu hết không đáp ứng được yêu cầu. Vốn tự có tại các NHTM quốc doanh tính đến cuối năm 1999 như sau:  Ngân hàng Ngoại thương (NHNT): 963 tỷ đồng  Ngân hàng Công thương (NHCT): 537 tỷ đồng  Ngân hàng Đầu tư & Phát triển (NHĐT&PT):792 tỷ đồng  NHNN&PTNTVN: 655 tỷ đồng (1). Thử so sánh với số tài sản của một số ngân hàng trên thế giới vào thời điểm năm 1995: Deutsche Bank (Đức) 502,3 tỷ USD; Sumitomo Bank (Nhật) 498,9 tỷ USD; Credit Lyonnais (Pháp) 337,6 tỷ USD; hay Chase Mahattan Bank (Mỹ) 333,8 tỷ USD… thì mới thấy sự nhỏ bé và khoảng cách rất xa của các NHTM Việt Nam. Ngay cả so sánh với khu vực thì vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam cũng chỉ bằng 10-20% vốn điều lệ của các NHTM trong khu vực; vốn tự có/tổng tài sản chỉ đạt khoảng 3-4%, xếp hạng gần cuối trong số 500 ngân hàng lớn nhất Châu Á năm 2000 (xem Bảng 2). Bảng 2: Xếp hạng các NHTM quốc doanh Việt Nam trong khu vực Châu Á theo quy mô tài sản Có (1) Nghiên cứu kinh tế số 290, tháng 7/2002. Tên ngân hàng Xếp hạng Tài sản Có (triệu USD) NHNN&PTNT 335 2575 NH Ngoại thương 345 2401 NH Công thương 347 2392 NH Đầu tư & Phát triển 364 2054 Nguồn: Tạp chí Asia Week ngày 15/9/2000 Trong khi vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh còn nhỏ bé thì vốn điều lệ của các NHTM cổ phần còn thấp hơn rất nhiều lần. Trong tổng số 48 NHTM cổ phần, NHTM đô thị có vốn điều lệ cao nhất là 350 tỷ đồng, có 20 NHTM cổ phần nông thôn có tổng số vốn điều lệ là 45 tỷ đồng (gần 3 triệu USD) còn ngân hàng có số vốn điều lệ nhỏ nhất là 1 tỷ đồng (2). Vốn điều lệ nhỏ thì đương nhiên vốn tự có của các ngân hàng cũng nhỏ, dẫn đến khả năng cạnh tranh kém. 2.1.1.2. Tình hình tài chính Tình hình tài chính của các NHTM hiện nay đang trong tình trạng thiếu lành mạnh nghiêm trọng. Theo tính toán của IMF, tình hình nợ khó đòi phải xử lý theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam hiện đang ở mức báo động, lên tới 13,3% vào thời điểm năm 2001 so với tổng dư nợ toàn quốc (trong khi mức an toàn là dưới 5%) với tổng trị giá lên đến 18.000 tỷ VND, tương đương hơn 1 tỷ USD (trong khi tổng vốn tự có của toàn ngành ngân hàng vào khoảng 20.000 tỷ VND). Theo Hình 1, tỷ lệ nợ khó đòi của riêng 4 NHTM quốc doanh tính đến cuối tháng 8/2001 đã lên đến gần 10 %. Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế thì số nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam thời kỳ 1996-1998 còn lên tới 3-4 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế (3). (2) Tạp chí Tài chính số tháng 5/2002 (3) Báo cáo tài chính Ngân hàng của WB tháng 7/2001 Hình 1: Tình hình nợ khó đòi của 4 NHTM quốc doanh theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam 4 5 6 7 8 9 10 11 1999Q4 2000Q1 2000Q2 2000Q3 2000Q4 2001Q1 8/2001 Nguồn: Dự báo của Ngân hàng Nhà nước và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), 7/2001. Nguyên nhân gây nợ khó đòi trong hệ thống NHTM Việt Nam: Một là, vốn tín dụng ngân hàng bao cấp chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động của doanh nghiệp. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả, NHTM cho vay vốn nhưng không thu hồi được nợ. Hai là, nhiều NHTM, nhất là các NHTM quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn, kể cả ngoại tệ để cho vay trung dài hạn đối với mọi thành phần kinh tế. Trong khi đó, các doanh nghiệp sử dụng khoản vay này không hiệu quả nên không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ba là, hầu hết các NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp là bất động sản, trong khi đó giá bất động sản thường xuyên biến động theo thị trường và bị ảnh hưởng bởi chủ trương, chính sách của Nhà nước. Bốn là, các NHTM cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo tiền vay trong khi giá cả luôn có xu hướng biến động do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá. Năm là, nhiều NHTM cho vay nhận tài sản thế chấp mà pháp luật cấm. Do đó, khi xiết nợ, toà án không cho phép các NHTM được thu hồi tài sản đó. Bảng 3: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1995-2001 Đơn vị: % Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Nợ ngoại ệ Tổng ợ Nợ nội tệ Năm % Comment [NC2]: thêm đơn vị Comment [NC3]: Nợ quá hạn/Tổng vốn tự có 61,9 75,7 112,3 - - - - Nợ quá hạn/Tổng dư nợ 7,8 9,3 12,4 12 13,2 13,1 13,3 Tổng vốn tự có/Tổng tài sản 4,8 5,5 7,4 6,8 7,2 7,1 - Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 2/1998; Thống kê của Ngân hàng Thế giới/2001 Có thể thấy, trong giai đoạn 1995-1996, nợ quá hạn trong các ngân hàng có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, tình hình nợ quá hạn (nợ khó đòi) của hệ thống NHTM Việt Nam càng trầm trọng. Vào thời điểm năm 1997, tỷ lệ nợ quá hạn/tổng vốn tự có đã lên đến 112,3% và nợ quá hạn/tổng dư nợ cũng lên đến 12,4%. Ngoài các khoản nợ khó đòi, khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam cũng còn rất thấp. Mức chênh lệch giữa tổng thu nhập so với tổng chi phí toàn ngành chỉ đạt gần 800 tỷ/năm, tương đương gần 60 triệu USD, thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận của các ngân hàng trong khu vực (OUB Singapore: 100 triệu USD; HSBH Hong Kong: khoảng 1392 triệu USD; Maybank Malaysia: 62.8 triệu USD). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thu nhập thấp của các NHTM là chi phí hoạt động kinh doanh hiện quá cao khi so sánh với các nước láng giềng. Chẳng hạn, tỷ lệ chi phí hoạt động/tổng tài sản Nợ tại NHNT vào khoảng 5,5%; tại NHCT là 9,3%; tại NHNN&PTNT là 8,5%; tại NHĐT&PT là 7,5% trong khi tỷ lệ ở các nước công nghiệp phát triển OECD là 1-2% (4). 2.1.2. Công nghệ cung ứng dịch vụ Công n
Tài liệu liên quan