Luận văn Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam

Trước tháng 7-97, tức là trước thời điểm xẩy ra cơn bão tài chính tiền tệ ở Châu Á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam Á, nhiều nước thành viên ASEAN đã kỳ vọng đến việc rút ngắn thời hạn hoàn thành AFTA vào năm 2000. Đối với Việt Nam, nhiều người cũng hy vọng sẽ rút ngắn tiến trình thực hiện AFTA vào năm 2003 thay cho mốc thời gian dự kiến ban đầu là 2006. Lý do căn bản là Việt nam và các nước ASEAN đều muốn đẩy nhanh tiến trình AFTA nhằm nhanh chóng biến khu vực ASEAN thành một khu vực kinh tế mở có năng lực thích ứng cao nhất với các xuthế do hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới. Tuy vậy, sau khi cơ bão tài chính tiền tệ xảy ra vào tháng 7 năm 1997 và lan truyền ra toàn khu vực theo hiệu ứng “ Đôminô “ với những tác động hết sức nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước ASEAN và nền kinh tế toàn cầu đã khiến không ít người nghi ngờ về tính khả thi của AFTA theo lịch trình đã cam kết của các nước.

pdf41 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 3910 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận Văn " Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt nam" 2 Mục lục Trang Lời mở đầu.............................................................................................. 1 Chương I- Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á........................ 2 I- Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính Châu á...................................... 2 II- Nguyên nhân cuộc khủng hoảng.......................................................... 3 II- Tính chất của cuộc khủng hoảng.......................................................... 5 IV- Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng................................. 6 1. Các tác động tiêu cực.................................................................... 6 2. Các tác động tích cực.................................................................... 8 Chương II- ảnh hưởng của khủng hoảng đối với Việt Nam......... 10 A- Những tác động của khủng hoảng đến các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam 11 I- Đối với lĩnh vực ngoại thương............................................................... 11 II- Đối với lĩnh vực thu hút vốn và trả nợ nước ngoài................................ 12 III- Đối với lĩnh vực ngân sách đầu tư trong nước..................................... 14 B- ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính ở các nước trong khu vực đến thương mại và đầu tư................................................................................................ 15 I- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của ta và các nước trong khu vực................ 17 1. Về xuất khẩu................................................................................. 17 3 2. Về nhập khẩu................................................................................ 18 3. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài....................................................... 18 Kết luận................................................................................................... 20 Lời nói đầu Trước tháng 7- 97, tức là trước thời điểm xẩy ra cơn bão tài chính tiền tệ ở Châu Á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam Á, nhiều nước thành viên ASEAN đã kỳ vọng đến việc rút ngắn thời hạn hoàn thành AFTA vào năm 2000. Đối với Việt Nam, nhiều người cũng hy vọng sẽ rút ngắn tiến trình thực hiện AFTA vào năm 2003 thay cho mốc thời gian dự kiến ban đầu là 2006. Lý do căn bản là Việt nam và các nước ASEAN đều muốn đẩy nhanh tiến trình AFTA nhằm nhanh chóng biến khu vực ASEAN thành một khu vực kinh tế mở có năng lực thích ứng cao nhất với các xu thế do hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới. Tuy vậy, sau khi cơ bão tài chính tiền tệ xảy ra vào tháng 7 năm 1997 và lan truyền ra toàn khu vực theo hiệu ứng “ Đôminô “ với những tác động hết sức nghiêm trọng đến nền kinh tế các nước ASEAN và nền kinh tế toàn cầu đã khiến không ít người nghi ngờ về tính khả thi của AFTA theo lịch trình đã cam kết của các nước. 4 Vì vậy đối với Việt nam tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là điều không tránh khỏi. Trong một nỗ lực tổng hợp và phân tích, nghiên cứu và đánh giá, bài viết xin trình bày một số những vấn đề về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á.Cụ thể là : Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á và tác động đến Nội dung của đề tài sẽ đi sâu phân tích những nguyên nhân, tác động của cuộc khủng hoảng, từ đó so sánh với hiện trạng của nền kinh tế Việt nam trên các lĩnh vực: đầu tư, xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, thị trường chứng khoán... trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chống đỡ và thoát khỏi cuộc khủng hoảng nhằm thực hiện tiến trình cải cách nền kinh tế, đạt được những mục tiêu đã đề ra: phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy tiến trình hội nhập nền kinh tế Việt nam với các nước trong khu vực và trên. thế giới, đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020 Nội dung Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á và những tác động tới nền kinh tế Việt nam. A/ Khủng hoảng tài chính tiền tệ I. Diễn biến cuộc khủng hoảng. Những triệu chứng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt nguồn từ Thái lan. Từ cuối năm 1996 nền kinh tế Thái lan đã biểu hiện những dấu hiệu của khủng hoảng : tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,4% so với mức 8,6% năm 1995, lạm phát cao 7% so với 4,5% năm 1995, xuất khẩu chỉ tăng 7% so với 28% năm 1995, thâm hụt ngân sách trên 7%, cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt 8,2% GDP. Nợ nước ngoài lên tới gần 100 tỷ USD trong đó 40% là nợ ngắn hạn trong khi dự trững ngoại tệ giảm chỉ còn 26,6% GDP( 1994:31,6%GDP, 1995: 29,5%GDP). Cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan không phải từ trên trời rơi xuống. Sức mạnh tàn 5 phá của nó đã được tích luỹ, dồn nén từ nhiều năm và đến đầu năm 1997 những mầm bệnh trong nền kinh tế Thái lan đã phát tác gây sức ép nặng nề cho sự phá giá tiền tệ. Ngày 2 tháng 7 Chính phủ Thái lan sau những cố gắng tuyệt vọng buộc phải tuyên bố thả nổi đồng Baht, chấm dứt thời kỳ chế độ tỷ giá cố định kéo dài gần 14 năm. Giá đồng Baht giảm tới mức thấp nhất trong 12 năm qua (29,55 Baht/1USD). Sau đó giá trị đồng Baht tiếp tục giảm (ngày 1-8 : 32 Baht/1USD), ngày 29-8 : 34,15 Baht/1USD), và nguy cơ khủng hoảng ngày càng lan rộng sang các lĩnh vực : kinh tế , chính trị, xã hội. Ngày 28-7 : Thống đốc ngân hàng trung ương Thái lan từ chức. Ngày 5-8 : Chính phủ Thái lan đình chỉ hoạt động của 42 ngân hàng và công ty tài chính. Cùng ngày, Thái lan chấp nhận kế hoạch cứu vãn nền kinh tế do *** đề nghị. Ngày 10-8: 58/91 công ty tài chính và ngân hàng tại Thái lan đã bị đóng cửa. Ngày 11-8 : Hội nghị tài trợ đa phương quốc tế tại Tokyo đưa ra một cam kết viện trợ cả gói 16,7 tỷ USD cho Thái lan kèm theo hàng loạt cac điều kiện yêu cầu Thái lan phải thực hiện. Ngày 15-10 : So với trước khi được thả nổi, đồng Baht đã bị mất giá hơn 40% và đạt mức 36,72 Baht/1USD. Ngay sau khi sự kiện thả nổi tỷ giá ở Thái lan một phản ứng dây truyền đã xảy ra tại các nước trong khu vực, nhất là các nước đang có sẵn nhiều “vấn đề “ nội tại trong phát triển kinh tế như Philippines, Malaysia, Indonexia, và tác động đến cả nền kinh tế khoẻ mạnh của Singapore. Ngày 11-7 : Chính phủ Philippines tuyên bố thả nổi đồng peso. Đồng này sụt giá ngay trong ngày đến 11,6% so với đôla Mỹ (29,45peso/1USD) 6 Trong vòng 10 ngày sau đó, Ngân hàng trung ương Philippines phải đưa vào thị trường 1,58 tỷ USD để chống đỡ cho đồng peso trước sự tấn công của các nhà đầu cơ tiền tệ, khiến cho dự trữ ngoại tệ của ngân hàng này xuống còn 9,7 tỷ USD. Ngày 18-7 : Đồng đôla Singapore giảm giá nhẹ : 1,4680đôla Singapore/1USD. Ngày 21-7 : Inđonesia buộc phải cho đồng Rupiah rớt giá còn 2,640 rupiah/1USD. Ngày 11-8 : Đồng Ringgit tại Malaysia sụt giá nhanh : 2, 7060 runggit đổi đượcv 1USD so với 2,6505 của ngày 8-8. Đây là mức thấp nhất kể từ 40 tháng qua. Ngày 14-8 : chính phủ Inđonesia quyết định thả nổi đồng rupiah (đồng tiền này bị mất giá tới 19% so với đồng đôla Mỹ, trên 3000 rupiah/1USD). Ngày 14-9 : Đồng ringgit của Malaysia lại xuống giá nhanh, sau khi có các lời chỉ trích lẫn nhau giữa thủ tướng Mahathir và nhà tài chính George Soros. Ngày 3-11 : Chính phủ Inđonesia dưới sức ép của IMF (xem như một trong các điều kiện tiên quyết để nhận khoản kinh phí khổng lồ 23 tỷ USD giúp vượt qua khủng hoảng) đã đóng cửa 16 ngân hàng trong đó có ba ngân hàng do con trai, em cùng cha và con gái của Tổng thống Suharto là cổ đông chính. Ngày 9-11 : Ông Chuan Leekpai được nhà vua Thái lan phê chuẩn làm thủ tướng thay ông Chavalit. Ngày 8-12 : Chính phủ Thái lan ra lệnh đóng cửa 56 trên tổng số 58 công ty tài chính đã bị tạm thời đình chỉ hoạt động từ tháng 7. Đây là một trong những biện pháp nhằm thoả mãn điều kiện của IMF. Ngày 6-1-1998 : Đồng peso của Philippines giảm còn 46,50/1USD. 7 Ngày 15-1-1998 : Tổng thống Suharto của Inđonesia ký thoả thuận 50 điểm với IMF để đổi lấy khoản vay nhằm vượt qua khủng hoảng. Ngày 22-1-1998 : Đồng rupiah của Inđonesia rớt giá xuống còn 12.050/1USD. Ngày 18-2-1998 : Inđonexia lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc biệt là các nước châu Âu giúp đỡ các nước Đông Nam á giải quyết cuộc khủng hoảng tiền tệ. Kể từ thời điểm các nước Tháilan, Indonesia, Philippines, Maylaysia tuyên bố thả nổi tiền tệ hay không can thiệp vào thị trường ngoại hối đồng tiền của các nước này lập tức bị mất giá nghiêm trọng, chỉ số chứng khoán giảm mạnh mặc dù đã có những biện pháp mang tính tình thế để đối phó và có sự giúp đỡ của cộng đồng tài chính quốc tế. Mức độ mất giá đồng tiền và sự suy giảm về giá trị chứng khoán của các nước bị khủng hoảng được thể hiện trên Bảng 1 đến Bảng 4 . Bảng 1 : Mức độ mất giá của các đồng tiền ASEAN từ tháng 4 năm 1997 đến 3 năm 1998 Đơn vị tính : %- Thời điểm gốc là đầu tháng 4/97 Nguồn : Asia Week March 6 -1998 Đầu tháng Malaysia Ringgit Indonesia Rupiah Singapore Dollar Philipine Peso Thailand Bath 4/97 5 6 7 8 9 10 11 0 -1 -2 -3 -7 -15 -29 -26 0 -1 -2 -2 -9 -19 -30 -36 0 0 0 0 -2 -5 -7 -9 0 0 +3 +3 -9 -14 -24 -25 0 0 +3 +3 -19 -23 -27 -35 8 12 1/98 2 3 -30 -37 -45 -32 -39 -58 -85 -74 -11 -15 -17 -13 -25 -35 -40 -35 -37 -44 -53 -42 Bảng 2 : Tỷ giá các đồng tiền ASEAN trước khi bị khủng hoảng so với USD Thời điểm đầu tháng 4/97 Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày Malaysia Ringgit Indonesia Rupiah Singapore Dollar Philippines Peso Thailand Baht 2,52 2415 1,43 26,2 25,5 Bảng 3 : Chỉ số chứng khoán các nước trước khi bị khủng hoảng Thời điểm đầu tháng 2 năm 97 Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày Bangkok SET Manila Composite Jakarta Composite Kuala Lumpur Composite Singapore ST Indl 710,45 3295,45 638,806 1260,20 2178,27 Bảng 4 : Mức độ sụt giảm của chỉ số chứng khoán trên thị trường các nước ASEAN Đầu tháng Bangkok SET Manila Composite Jakarta Composite Kuala Lumpur Composite Singapore ST Indl 2/97 0 0 0 0 0 9 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1/98 2 3 -8 -5 -20 -30 -20 -13 -40 -40 -47 -49 -55 -39 -30 -4 -10 -22 -18 -19 -21 -29 -32 -40 -45 -49 -40 -35 0 -8 -4 0 +5 +3 -30 -25 -29 -40 -45 -25 -29 -1 -6 -7 -7 -11 -14 -20 -34 -35 -45 -55 -60 -42 0 -7 -10 -10 -10 -12 -15 -14 -29 -23 -30 -43 -31 Nguồn : ASIA Week March 6,1998 Như vậy rõ ràng theo như số liệu bảng trên thì luận điểm cho rằng sự phá giá của đồng tiền các nước này như là một phương thức trả lại giá trị đích thực cho chúng nhằm tạo dựng lại niềm tin vào các điều kiện kinh tế vĩ mô của nền kinh tế các nước, đã hoàn toàn trở nên thiếu sức thuyết phục. Đồng tiền các nước đã không điều chỉnh để mất giá từ 20-30% như IMF đã cảnh báo vào năm 1996 mà hơn thế, mức độ mất giá đã lên tới 45-85%. Do đó những tác động của cuộc khủng hoảng đến bản thân các nước là hết sức to lớn và thể hiện trên nhiều chỉ tiêu khác nhau. II. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á năm 1997 có nhiều nguyên nhân hết sức cơ bản và có liên quan mật thiết với nhau. Hội nghị Bộ trưởng tài chính của các nước thành viên ASEAN vào ngày 2-12 tại Kulalampur đã chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản sau : 10 1/ Sự mất cân đối vĩ mô gắn liền với thiếu hụt lớn về thanh toán và sự giảm sút đáng kể và tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu. 2/ Sự lệ thuộc nặng nề vào các khoản nợ ngắn hạn bên ngoài và cùng với sự tăng nhanh tín dụng và các khoản vay không hiệu quả trong công nghiệp ngân hàng đã làm suy yếu năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng tài chính. 3/ Nhiều nguồn vốn lớn không công khai đã giữ vai trò chi phối các thị trường tiền tệ và gây sức ép với thị trường khi quy mô của thị trường lại nhỏ. Diễn giải các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á bao gồm các điểm cơ bản sau : Thứ nhất : Nền kinh tế phát triển hướng ngoại quá lệ thuộc vào nước ngoài. Sau những năm 70 các nước bị khủng hoảng đã thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Bản chất của chính sách này là đẩy mạnh quá trình xuất khẩu để thu ngoại tệ. Trên thực tế chiến lược phát triển kinh tế theo chính sách này đã tỏ ra thành công trong suốt thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 , giúp cho các nước này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Song do quá đề cao chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu nên nền kinh tế các nước đã lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu . Chẳng hạn ở Malaysia kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tới 90% GDP . Trong khi đó các nước này lại tập trung quá mức vào một số mặt hàng chủ chốt như điện tử , may mặc.. làm cơ cấu các mặt hàng sản xuất nghèo nàn, mất cân đối. Bình quân từ năm 1994 , 1995 và đầu năm 1996 khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Singapore là hàng điện tử chiếm gần 50% GDP, đối với Malaysia tỷ lệ này là 50% GDP và Hàn Quốc là 33,3% GDP, Thái lan 21,2% GDP và Philipin là 43,5% GDP. Trong bối cảnh ngày càng có nhiều nước cũng tập trung vào các mặt hàng này dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng lớn , thị trường có xu hướng bão hoà . Đặc biệt 11 phải kể đến Trung quốc , sau những năm 80 Trung quốc tiến hành giảm giá NDT . Trong vòng 10 năm từ năm 1980 trở lại đây Trung quốc đã 4 lần giảm giá NDT , so với USD mức mất giá lên tới 212,6% trong vòng 6 năm ( từ 1981-1987) vì vậy hàng hoá xuất khẩu của Trung quốc tăng nhanh và cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hoá của Thailand và các nước ASEAN do giá rẻ . Năm 1996 xuất khẩu của Trung quốc đã đạt tới 150 tỷ USD gần bằng tổng giá trị xuất khẩu của cả 4 nước Malaysia. Thailand, Indonexia. Philipine cộng lại. Đầu năm 1997 xuất khẩu của Trung Quốc tăng 25% trong khi đó xu thế đối với các nước ASEAN lại giảm. Nhịp độ tăng xuất khẩu của cả khu vực ASEAN đã giảm từ 20% năm 1995 xuống còn chưa đầy 10% năm 1996, hầu hết các nước phải gánh chịu những tổn thất to lớn khi tổng cầu đối với các sản phẩm điện tử giảm mạnh , tổng thu nhập tính theo USD từ xuất khẩu đồ điện tử chỉ tính từ 12/1995 đến tháng 7/1996 giảm 10% trong đó Hàn quốc giảm 22,5%, Singapo giảm 6,5%, đài loan giảm 13% 2. Xuất khẩu giảm dẫn tới thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai tại các nước này ngày càng lớn . Khoản thâm hụt này năm 96 của cả Malaysia và Thái lan đều đạt mức 13,5 tỷ USD tương ứng chiếm 5,5% và 7,9% so với GDP , đối với Indonesia vào khoảng 8,7 tỷ USD chiếm 3,4% GDP . Thứ hai : Vay nợ nước ngoài đặc biệt là nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp quá cao và đầu tư bất hợp lý (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản) của các nước Đông Nam á : Do cán cân các nước này bị thâm hụt nên gánh nợ nước ngoài tăng vọt. Mức nợ này của các công ty Thái lan là 60 tỷ USD, của các công ty Indonesia là 130 tỷ USD. Xem xét riêng ở Thái lan cho thấy năm 1993 nợ quá hạn đã lên tới 40% GDP, năm 1994 con số này là 45% GDP, năm 95 chiếm 50% GDP đến năm 1996 mức nợ quá hạn là 52% GDP. Vay nợ nước ngoài đã tăng mạnh ở các nước ASEAN trong những năm gần đây . Năm 1997 nợ nước ngoài của Indonesia bằng 188,7 % GDP, Malaysia là 88,9% GDP, Philipine bằng 79,7% GDP và Thái lan là 97,1% GDP. Số nợ phải trả của các nước đã vượt quá 10% GDP . 12 Bên cạnh đó, điều nguy hiểm hơn là Chính phủ không kiểm soát được nợ của các Ngân hàng và các doanh nghiệp. Nợ nước ngoài bao nhiêu chính phủ không nắm rõ. Thêm vào đó, chính phủ lại không xây dựng được khuôn khổ pháp luật về năng lực giám sát trong quá trình tự do hoá tài chính. Trong cơ chế quản lí bảo thủ và yếu kém như vậy các doanh nghiệp sản xuất đua nhau vay nợ một cách liều lĩnh, số nợ vượt quá tổng số vốn của doanh nghiệp từ 200% đến 400% . Mặt khác các khoản vay nước ngoài với lãi suất thấp lại được đầu tư cho vay với lãi suất cao ở hai khu vực không sinh lời trong ngắn hạn là đầu tư bất động sản và chứng khoán. Do việc đầu tư quá mức vào bất động sản đã khiến cho thị trường này mang tính chất của một thị trường “ bong bóng “. Các ngân hàng và tổ chức tài chính xuất phát từ sự tin tưởng vào chế độ tỷ giá cố định đã không dùng số ngoại tệ được vay để tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu mà không ngừng đầu tư và bất động sản và chứng khoán. Kết quả là khi thị trường bất động sản mất giá các khoản vốn đầu tư này đã trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Vì vậy bản chất của cuộc khủng hoảng phần nào là một “ cuộc khủng hoảng nợ “ do vay vốn không được kiểm soát và đầu tư thiếu hiệu quả . Thứ ba : Duy trì tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD của các nước có nền kinh tế có dấu hiệu chững lại hoặc đi xuống, trong khi nền kinh tế của Mỹ đang phát triển đã khiến cho các nước này thay vì để đồng tiền của mình sụt giảm theo đúng giá trị của nó lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD để cố gắng duy trì mức cân bằng giả tạo tới mức không thể kiềm giữ được nữa. Đặc biệt là Thái lan, việc 13 năm liền Chính phủ Thái lan duy trì tỷ giá cố định giữa đồng Baht và USD ( khoảng 25 Baht/1USD) là hết sức phi kinh tế, bởi trong khoảng thời gian này, các quá trình kinh tế thế giới và khu vực diễn ra rất mạnh mẽ, đồng đôla Mỹ ngày càng mạnh lên, đồng Baht yếu dần, cho đến trước thời điểm xảy ra khủng hoảng, đồng Baht đã giảm xuống còn 30,27 Baht/1USD. Lợi dụng điều này, các nhà đầu tư đã 13 tạo ra mức bán khổng lồ hàng chục tỷ Baht để mua vài tỷ USD. Sức mạnh theo kiểu bán khống đã nâng cầu USD lên 100 lần so với bình thường và đẩy tỷ giá vượt xa tỷ giá thực. Kết quả đồng Baht bị bẻ gãy. Thứ tư : Hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém, công tác quản lý ngoại hối lỏng lẻo : Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở cả Đông Nam á, Hàn quốc và Nhật đã dẫn đến một số lượng nợ lòng vòng khổng lồ mà không kịp phát hiện kịp thời. Các nước có thị trường tiền tệ khủng hoảng đều có mức nhập siêu quá lớn, trong khi tỷ lệ dữ trữ ngoại tệ trên nợ nước ngoài là quá thấp. Trong năm 1996, tỷ lệ này của Hàn quốc là 31%, Inđonesia chỉ khoảng 12% và Thái lan là 43,1%... Bảng 8 : Dự trữ ngoại tệ của các nước ASEAN . dự trữ ngoại tệ các nước ASEAN Năm Indonexia Malaysia Philippines Xingapore Thailan Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 19,83 19,86 19,87 20,38 20,99 21,08 21,67 20,38 28,40 28,70 29,10 28,30 27,70 28,00 23,30 21,10 11,00 11,79 11,83 11,56 11,42 - 9,60 - 77,45 77,36 78,82 78,99 80,54 81,85 79,51 78,05 38,20 37,20 37,10 36,30 32,20 31,40 30,40 25,90 Nguồn : Viện Phatra. Thái lan , tháng 9/1997 Cuối cùng chính sách tỷ giá cố định cứng nhắc tại các nước này đặc biệt mâu thuẫn với cơ chế tự do di chuyển vốn trong nền kinh tế các nước từ đó làm hạn chế và sai lệch khả năng kiểm soát các dòng vốn của Chính phủ . 14 ***Thứ tư : Hệ thống ngân hàng - tài chính yếu kém, công tác quản lí ngoại hối lỏng lẻo . Nhìn chung hệ thống ngân hàng - tài chính tại các nước bị khủng hoảng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao . Trong một thời gian dài sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính tại các nước này được che dậy bởi những thành tựu kinh tế của các nước dẫn đến các thông tin phản ánh bị lệch lạc , méo mó. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng do nhiều nguyên nhân đem lại song theo chúng tôi có thể do một số nguyên nhân chính như : Thứ nhất : Chính phủ các nước có sự can thiệp ( mức độ khác nhau ) vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính nhằm hướng các hoạt động ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát triển kinh tế . Điều này dẫn đến việc quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá m
Tài liệu liên quan