Tài liệu Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân

Về nguyên tắc, chế độ tài sản chung gắn liền với thời kỳ hôn nhân, khi hôn nhân còn tồn tại trước pháp luật thì còn tồn tại tài sản chung của vợ chồng. Do đó, thông thường tài sản chung chỉ được chia khi ly hôn chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn hoặc một bên vợ, chồng chết). Tuy nhiên trên thực tế nhiều cặp vợ chồng vì nhiều lý do khác nhau muốn được chia tài sản chung khi hôn nhân còn đang tồn tại

doc12 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Về nguyên tắc, chế độ tài sản chung gắn liền với thời kỳ hôn nhân, khi hôn nhân còn tồn tại trước pháp luật thì còn tồn tại tài sản chung của vợ chồng. Do đó, thông thường tài sản chung chỉ được chia khi ly hôn chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn hoặc một bên vợ, chồng chết). Tuy nhiên trên thực tế nhiều cặp vợ chồng vì nhiều lý do khác nhau muốn được chia tài sản chung khi hôn nhân còn đang tồn tại. Nguyện vọng này có thể xuất phát từ mâu thuẫn giữa vợ chồng trong quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng có thể xuất phát từ mâu thuẫn về tình cảm giữa vợ chồng song do tuổi cao, địa vị xã hội, nghề nghiệp danh dự uy tín, trách nhiệm đối với các con… mà họ không muốn ly hôn nhưng muốn độc lập về tài sản để tránh phát triển mâu thuẫn và được độc lập trong cuộc sống. Vì vậy, có thể nói việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp tối ưu trong nền kinh tế hiện nay. Xuất phát từ thực tế trên, điều 18 luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã qui định: “khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui định ở điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Kế thừa và phát triển Điều 18 luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tại điều 29 và điều 30 và được hướng dẫn cụ thể từ điều 6 đến điều 11 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Khái quát về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân Khái niệm Có thể tạm định nghĩa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như là việc chuyển một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc khối tài sản chung vào khối tài sản riêng của vợ hoặc của chồng. Đây không phải là phân chia hiểu theo nghĩa thông thường, tức là việc chấm dứt tình trạng sở hữu chung theo phần bằng cách phân hẳn cho người này hay người nọ một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc sở hữu chung, như thế nào để tổng giá trị các tài sản chia cho một người ngang với giá trị phần quyền của người đó trong khối tài sản chung được đem chia. Khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ và chồng có thể thoả thuận rằng người này hoặc người kia nhận nhiều tài sản, dù trên thực tế, công sức đóng góp của người nhận nhiều tài sản vào việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung không tương xứng với giá trị của số tài sản nhận được. Chế định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân Theo Khoản 1 điều 29 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : “Khi hôn nhân còn tồn tại trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng , trường hợp nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung, việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.” “Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.” Như vậy theo điều 29 việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi có lý do chính đáng được nhà nước công nhận và bảo vệ. Việc chia tài sản chung trong trường hợp này có thể thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc thông qua bản án, quyết định của Tòa án (khi vợ, chồng có yêu cầu). Quy định này xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội, khi vợ hoặc chồng (hoặc cả vợ và chồng) có lý do chính đáng, có yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thì Tòa án chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Khi chia nếu vợ chồng thỏa thuận được với nhau, mỗi bên được chia những gì, tỉ lệ bao nhiêu, xét thấy hợp lý. Tòa án sẽ công nhân thỏa thuận đó; nếu vợ chồng không thỏa thuận được với nhau thì Tòa án sẽ quyết định chia. Quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng cũng như quyền lợi của những người khác có liên quan tới tài sản chung của vợ chồng. Nhằm hạn chế việc vợ chồng trong thực tế lợi dụng quy định này mưu cầu lợi ích trái pháp luật, ảnh hưởng tới quyền lợi của người khác, khoản 2 Điều 29 đã qui định rõ về vấn đề này. Trong trường hợp Tòa án áp dụng Điều 29 đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân tồn tại, nếu phát hiện vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản thì phán quyết của Tòa án phải bị hủy bỏ. Tài sản chung của vợ chồng Khi xảy ra sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quan hệ nhân thân của chồng và vợ không có sự thay đổi, đây chính là điểm khác biệt cơ bản nhất của chế định này với chế định ly thân được quy định trong pháp luật của các nước phương Tây. Tuy nhiên, chế độ tài sản chung với căn cứ xác định quy định tại điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có sự thay đổi rất nhiều. Theo điều 30 luật hôn nhân và gia đình và theo điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP phần tài sản chung mà vợ chồng được chia, hoa lơi, lợi tức từ tài sản riêng, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của mỗi bên trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác. Như vậy, sự kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dẫn đền tài sản chung của vợ chồng được xác định lại, theo những căn cứ sau : Về thời điểm phát sinh: Tài sản chung được xác định căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung và thời điểm khôi phục chế độ tài sản chung. Theo qui định tại điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung được xác định theo thời điểm được qui định trong văn bản thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì căn cứ vào ngày tháng năm lập văn bản. Trong trường hợp văn bản thỏa thuận có công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng thì thời điểm là ngày tháng năm thỏa thuận trong văn bản, nếu không có thỏa thuận thì hiệu lực được tính từ ngày công chứng, chứng thực. Trường hợp phải công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật thì ngày được công chứng, chứng thực là ngày có hiệu lực của văn bản. Trong trường hợp việc chia tài sản chung do toà quyết định thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung là ngày bản án, quyết định của Tòa án về chia tài sản chung có hiệu lực pháp luật. Pháp luật cũng ghi nhận quyền thỏa thuận khôi phục lại chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân . Theo điều 10 nghị định số 70/2001/NĐ-CP thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung cũng căn cứ vào thời điểm được thảo thuận trong văn bản thỏa thuận khôi phục tài sản chung , nếu không có thỏa thuận thì hiệu lực được tính từ ngày tháng năm lập văn bản . Trong trường hợp văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng thì hiệu lực tính theo thời điểm thỏa thuận trong văn bản, nếu không có thỏa thuận thì căn cứ vào ngày văn bản được công chứng, chứng thực. Trường hợp văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung phải công chứng chứng thực theo qui định của pháp luật, thì hiệu lực tính từ ngày văn bản được công chứng, chứng thực. Căn cứ vào nguồn gốc tài sản Kể từ thời điểm được phân tích ở trên, tài sản chung của vợ chồng được xác định theo qui định tại điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000, điều 8 và điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP, bao gồm những tài sản sau : Tài sản do vợ chồng tạo ra Tài sản chung chưa chia Tài sản được thừa kế chung, tặng cho chung Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia , trừ trường hợp được thừa kế riêng Tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung Tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng Đối với thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác bao gồm cả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng phát sinh sau khi chia tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ chồng, chúng chỉ được xác định là tài sản chung nếu nếu vợ chồng có thỏa thuận. Tuy nhiên căn cứ xác định tài sản chung nói trên có thể thay đổi nếu có sự kiện vợ chồng lập văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung. Theo điều 9 và điều 10 Nghị định 70/2001/NĐ-CP, kể từ ngày văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực , việc xác định tài sản chung thuộc sở hữu riêng của mỗi bên , phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào việc thỏa thuận của vợ chồng . Theo chúng tôi , qui định này trao cho vợ chồng một quyền hạn quá rộng . Việc vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân , đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà không cần có sự xem xét của Tòa án đã đưa điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trở thành hình thức, chế độ tài sản pháp định không đảm bảo đúng bản chất pháp lý của nhà làm luật để ra. Các trường hợp chia tài sản chung Đầu tư kinh doanh riêng Tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch. Khái niệm đầu tư kinh doanh, đó có thể là việc thành lập một doanh nghiệp tư nhân, việc tham gia thành lập một công ty với tư cách là một thành viên sáng lập hoặc việc tham gia vào một kế hoạch hợp tác kinh doanh. Dự án đầu tư kinh doanh riêng có thể đang được thực hiện, nhưng cũng có thể chỉ mới được chuẩn bị thực hiện, thậm chí đang trong giai đoạn thai nghén, hình thành. Thực ra, tài sản chung vẫn có thể được đầu tư kinh doanh riêng đồng thời vẫn giữ nguyên quy chế tài sản chung: người đầu tư kinh doanh riêng sẽ có độc quyền khai thác công dụng của tài sản, do áp dụng nguyên tắc theo đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản chung, đặc biệt là nguyên tắc quản lý riêng đối với tài sản chung dùng cho hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung để tài sản được đầu tư kinh doanh riêng hưởng quy chế tài sản riêng tỏ ra có ích trong trường hợp người đầu tư kinh doanh muốn định đoạt tài sản hoặc xác lập các giao dịch quan trọng có liên quan đến tài sản (như cầm cố, thế chấp) theo những thủ tục đơn giản và không mất thì giờ. Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng Các nghĩa vụ được xác lập trước khi kết hôn cũng như các nghĩa vụ gắn liền với các tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân được bảo đảm thực hiện bằng các tài sản riêng, và trong chừng mực đó có thể được coi như là các nghĩa vụ riêng. Mặt khác, việc chia tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ cho phép nghĩ rằng nghĩa vụ đó là nghĩa vụ mà khối tài sản riêng có trách nhiệm đóng góp toàn bộ vào việc thanh toán: nếu khối tài sản chung “ứng trước” để thực hiện nghĩa vụ, thì, đến một thời điểm thích hợp, khối tài sản riêng phải hoàn lại. Với suy nghĩ đó, thì cũng có thể coi là nghĩa vụ riêng (mà việc thực hiện có thể dẫn đến việc chia tài sản chung), nghĩa vụ phát sinh từ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cá nhân vợ hoặc chồng mà người còn lại không bị ràng buộc một cách liên đới. Nghĩa vụ trả nợ vay, nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho người khác cũng là nghĩa vụ riêng, nếu đã được xác lập mà không có sự đồng ý của vợ (chồng). Các nghĩa vụ phải có một tầm quan trọng nhất định. Không chỉ vì cần trả một món nợ riêng rất nhỏ mà phải chia một khối tài sản chung có giá trị lớn. Tính chất nhỏ hay lớn của món nợ có lẽ nên được xác định trên cơ sở mối quan hệ so sánh giữa giá trị của món nợ phải trả và giá trị của khối tài sản riêng hiện hữu của người mắc nợ: nếu khối tài sản riêng hiện hữu thừa sức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì không lý do gì phải tiến hành chia tài sản chung. Tuy nhiên, cũng có trường hợp khối tài sản riêng đủ hoặc thừa sức bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng việc chia tài sản chung vẫn tỏ ra cần thiết, do các tài sản riêng có giá trị đồng thời cũng là những tài sản có hoa lợi là nguồn sống chủ yếu của gia đình. Nghĩa vụ xác lập trong tương lai. Luật không nói rõ nghĩa vụ tài sản riêng là nghĩa vụ hiện hữu hay nghĩa vụ sẽ được xác lập trong tương lai. Bởi vậy, việc chia tài sản chung cũng có thể được tiến hành nhằm bảo đảm việc thực hiện một nghĩa vụ mà ở thời điểm tài sản chung được phân chia, chỉ nằm trong dự tính của vợ hoặc chồng. Vợ muốn vay một số tiền mà không có tài sản riêng để bảo đảm; chồng không đồng ý với vợ về dự án làm ăn và do đó không đồng ý cùng đứng vay; vợ muốn chia tài sản chung để có thể tự mình đứng vay với sự bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng khối tài sản riêng, mà không cần đến vai trò của chồng. Cũng có khi người chồng trong giả thiết chủ động yêu cầu chia tài sản chung để bảo đảm an toàn cho một phần khối tài sản của gia đình. Điều chắc chắn: người sẽ trở thành chủ nợ của người vợ trong giả thiết không có quyền thay mặt người sắp vay tiền để yêu cầu chia tài sản chung, bởi chừng nào hợp đồng vay chưa được xác lập, quyền đó không tồn tại. Lý do chính đáng khác Một trong những lý do chính đáng khác là: vợ chồng không còn thực sự sống chung, dù không chấm dứt quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý. Một lý do khác, cũng có thể coi là chính đáng: vợ hoặc chồng đã từng có nhiều tài sản riêng, nhưng phần lớn tài sản riêng đã được chuyển thành các tài sản chung sau các vụ chuyển nhượng; nay, vợ hoặc chồng muốn khôi phục khối tài sản riêng của mình để có thể chủ động trong các giao dịch riêng. Cũng được coi là có lý do chính đáng trong trường hợp vợ (chồng) vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích và người còn lại cần có một khối tài sản riêng để được chủ động hơn trong các giao dịch của mình. Trong một giả thiết đặc thù, vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung, chồng hoặc vợ cũng có thể yêu cầu chia tài sản chung để bảo đảm sự an ninh của kinh tế gia đình. Trái lại, khó có thể coi là có lý do chính đáng, nếu vợ hoặc chồng muốn chia tài sản chung chỉ vì cảm thấy rằng các quy tắc về quản lý tài sản chung quá gò bó, gây cản trở cho việc thực hiện các quyền tự do cá nhân của mình. Cũng không thể coi là chính đáng, nếu vợ, chồng muốn chia tài sản chung chỉ vì nhận thấy rằng khối tài sản chung đã thu hút quá nhiều tài sản riêng của mình sau một quá trình dài chung sống: pháp luật đã xây dựng lý thuyết về công sức đóng góp vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung để bảo vệ lợi ích của đương sự. Nói chung, tính chất chính đáng hay không chính đáng của lý do chia tài sản chung chỉ được đánh giá khi có tranh chấp và sự việc được đưa ra trước Toà án. Trong khung cảnh của luật hiện hành, một khi vợ chồng thống nhất ý chí về sự cần thiết của việc chia tài sản chung và cả về cách chia, thì, trong quan hệ giữa vợ và chồng, vấn đề chính đáng hay không chính đáng của lý do chia tài sản không được đặt ra, bởi, như ta sẽ thấy, sự thoả thuận giữa vợ và chồng về việc chia tài sản chung không chịu sự giám sát của Toà án, trừ trường hợp có đơn yêu cầu của một người thứ ba về việc ngăn chặn hoặc chế tài những vụ chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện những nghĩa vụ tài sản của bản thân vợ hoặc chồng. Nói cách khác, vấn đề có hay không có lý do chính đáng chỉ được đặt ra một khi giữa vợ và chồng không có sự nhất trí, đồng thuận về việc hay không chia tài sản chung. Mà nếu vậy, thì trong trường hợp vợ và chồng có được sự đồng thuận đối với việc phân chia tài sản chung., quy định về sự hiện hữu của một lý do chính đáng trở nên thừa. Nếu đúng là vợ chồng có thể thoả thuận về việc phân chia tài sản chung mà không cần lý do chính đáng, thì toàn bộ chế độ pháp định về tài sản sẽ chỉ mang tính chất của luật bổ khuyết, nghĩa là chỉ được áp dụng nếu không có thoả thuận ngược lại. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân - giải pháp tối ưu trong nền kinh tế hiện nay. Trong điều kiện kinh tế hiện nay khi gia đình đã trở thành đơn vị kinh tế, trở thành chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự kinh tế thì vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân một vợ một chồng nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền tự do cá nhân..          Thực tiễn cho thấy việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải pháp tối ưu trong nền kinh tế xã hội hiện nay. Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn xã hội, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân có thể bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Quy định này là một giải pháp dung hòa nhằm tối thiểu hóa những xung đột, mâu thuẫn của vợ chồng trước hết trong quan hệ tài sản, sau đó là những quan hệ nhân thân khác, đồng thời giữ được hòa khí cũng như tạo ra sự ổn định nhất định giữa các thành viên khác trong gia đình. Ví dụ như: Trong quan hệ vợ chồng, hai người tính tình không hợp nhau nhưng con cái đã lớn, họ không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng do đó một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản. Thực tế nhiều cặp vợ chồng già, thời gian kết hôn đã lâu, gia đình đã có cháu nội cháu ngoại nhưng vợ chồng có mâu thuẫn lại không muốn ly hôn chỉ muốn ra ở riêng để ngày lễ ngày tết gặp con cháu mà quan hệ vợ chồng về mặt pháp lí chưa chấm dứt. Hay vợ chồng mới kết hôn con còn rất nhỏ nhưng lại xảy ra mâu thuẫn không muốn ly hôn mà chỉ muốn chia tài sản để đứa con có cha mẹ, không bị mất cân bằng trong cuốc sống. Giải quyết quan hệ mâu thuẫn của mỗi bên vợ chồng có thể người vợ hoặc người chồng đã từng ly hôn nay phải cấp dưỡng cho con, cho vợ ( hoặc chồng) trước. Có những trường hợp vợ chồng không mâu thuẫn nhưng người vợ ( chồng ) lại mâu thuẫn với con riêng hay vợ ( chồng ) của phía bên kia. Điều 60 luật hôn nhân gia đình quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn “ khi ly hôn, nếu bên kia khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.” Thứ hai, trên cơ sở kế thừa những quan điểm tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, cũng như xuất phát từ yêu cầu khách quan là thay đổi để phù hợp với Hiến pháp 1992 (Điều 57), Bộ luật Dân sự và Luật doanh nghiệp về việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quy định tại Điều 29, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn nhằm bảo đảm quyền tự chủ của vợ chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội nhất định như quyền tự do kinh doanh, quyền tham gia vào các giao dịch dân sự... Để tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra gây ảnh hưởng đến kinh tế chung của gia đình cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng được tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình thì vợ, chồng có thể yêu cầu tòa án cho chia tài sản chung ngày trong khi hôn nhân còn tồn tại để thực hiện mục đích đầu tư kinh doanh của mình. Trong thời kì hôn nhân vì tiền lương hay bất cứ khoản thu nhập nào cũng được coi là tài sản chung cho nên khi định đoạt hay chi tiêu một khoản tiền lớn mà không nhằm vào mục đích phục vụ nhu cầu của gia đình thì phải được sự đòng ý của cả vợ và chồng. Ví dụ như trong trường hợp gia đình anh ruột của người chồng gặp khó khăn làm ăn thua lỗ, người chồng cũng muốn giúp đỡ anh mình bằng cách dùng tiền là tài sản chung để giúp anh trai mình có thêm vốn liếng chuyển đổi sang kinh doanh lĩnh vực khác vượt qua cơn lao đao sóng gió nhưng người vợ không đồng ý thì chia tài sản chung trong thời  kì hôn nhân là giải pháp tối ưu để người chồng có tiền giúp đỡ anh mình mà hôn nhân không đổ vỡ. Hay khi cha mẹ mất sớm nhà chỉ có hai anh em, người anh hứa với họ hàng là dù lập gia đình riêng nhưng vẫn cấp dưỡng cho em ăn học. Nhưng khi cô em gái bước vào năm thứ hai đại học thì chị dâu không đồng ý chu cấp nữa mà nói với chồng là đã hết nghĩa vụ cấp dưỡng vì em đã hơn 18 tuổi thì trong trường hợp này chia tài sản chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một giải pháp tối ưu nhất. Vợ chồng có mâu thuẫn nghiêm trọng nhưng là một ông chủ của một công ty lớn, để giữ được uy tín của mình trong kinh doanh và không bị dị nghị thì người chồng không ly hôn với vợ mặt khác người vợ do đã sống quá lâu trong tình trạng chỉ ở nhà lo việc nhà và con cái nên khó có thể tạo cho mình được một công việc ổn định để tự nuôi sống bản thân, bởi vậy họ không muốn ly hôn và đồng ý chia tài sản chung. Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán trao đổi kinh doanh là một hoạt động linh hoạt đòi hỏi phải có những quyết định nhanh chóng chớp thời cơ do vậy việc thỏa thuận giữa vợ và chồng là rất cần thiết để thể hiện sự bình đẳn
Tài liệu liên quan